Mục lục bài viết
Tập luyện thể lực là cách đơn giản nhất để tăng cường năng lực hô hấp, bởi quá trình vận động đòi hỏi tăng nhu cầu oxy và dinh dưỡng ở các mô cơ. Do đó, hệ hô hấp và tuần hoàn phải tăng cường hoạt động, dẫn đến những biến đổi về cấu trúc của tim phổi để phù hợp với chức năng, cải thiện sự giãn nở của lồng ngực, cải thiện lực và sức bền của các cơ hô hấp giúp tăng thể tích và độ sâu hô hấp, tăng thông khí phổi, tăng cường quá trình trao đổi oxy ở phổi. Đồng thời, những biến đổi về cấu trúc của tim như tăng thể tích buồng tim, dầy thành cơ tim giúp tăng cung lượng tim và giảm nhịp tim khi gắng sức và khi nghỉ ngơi.
Trong tình hình dịch bệnh viêm phổi cấp do virus SARS - CoV-2 vẫn còn đang diễn biến phức tạp, điều kiện tập luyện khó khăn, việc luyện tập ngoài trời, nơi công cộng hoặc tại các phòng tập bị hạn chế. Mọi người có thể tận dụng không gian tại chỗ trong nhà, sân, vườn, thực hiện những hình thức tập luyện đơn giản, các bài tập thở, giúp nâng cao sức khỏe thể chất nói chung, phòng và điều trị bệnh đường hô hấp.
Cấu tạo của hệ hô hấp.
Tập luyện cho hệ hô hấp
Đối với những người khỏe mạnh có thể thoải mái lựa chọn tập luyện những môn thể thao mà mình yêu thích. Tuy nhiên, để cải thiện chức năng hô hấp, tăng cường khả năng chịu đựng của hệ tuần hoàn-hô hấp nên chú ý lựa chọn những loại hình tập luyện đòi hỏi sức bền ưa khí như aerobic, chạy cự ly dài, đi bộ, đạp xe, bơi… Các bài tập sức mạnh cơ như nâng tạ, kéo xà, chống đẩy… đặc biệt cho nhóm cơ hô hấp như cơ sườn ngực, cơ hoành và các nhóm thân, chi trên, cơ vai, lưng, tay cần được ưu tiên. Bên cạnh đó, cần phối hợp với các bài tập thở có tác dụng bổ trợ, làm giãn nở lồng ngực, giúp nâng cao năng lực hô hấp và khả năng gắng sức.
Đối với những người mắc một số bệnh lý hô hấp mạn tính như viêm phế quản mạn, hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), ngoài việc tuân thủ chế độ điều trị và kiểm soát bệnh cần kiên trì chương trình tập luyện phục hồi chức năng hô hấp phù hợp. Các bài tập thở, các bài tập vận động thích hợp sẽ góp phần nâng cao khả năng hoạt động thể lực, cải thiện thông khí phổi, giảm bớt tình trạng khó thở chung và khó thở gây ra do gắng sức.
Kỹ thuật tập thở
- Thở chúm môi: Hít vào chậm qua mũi – Thở ra từ từ bằng miệng môi chúm lại như thổi sáo. Có thể áp dụng thêm kỹ thuật ngưng thở cuối kỳ hít vào (nín thở khoảng 03 giây).
- Thở bụng: Thả lỏng hai vai, một tay đặt lên bụng (để cảm nhận di động của bụng) – Mím môi hít vào bằng mũi phình bụng ra – Thóp bụng lại thở ra bằng phương pháp chúm môi.
Thở bụng
Khi tập thở nên hít vào sâu nhất có thể (lưu ý không cần gắng sức quá mức), thở ra vừa sức. Tập ít một, tăng dần, thường xuyên thành thói quen hàng ngày. Có thể dùng kỹ thuật này khi khó thở hoặc khi hoạt động thể lực.
Tập thở ra gắng sức và ho chủ động
- Thở ra gắng sức: Mím môi hít vào sâu và chậm – Thở ra nhanh, mạnh gắng sức.
- Ho chủ động: Nên tập thở vài nhịp trước khi ho chủ động. Hít vào chậm sâu, nén hơi khoảng 3 giây - Ép ngực và bụng ho mạnh ra liên tiếp 2, 3 lần – Khạc đờm. Nếu không khạc được đờm có thể nghỉ ngơi tập thở vài nhịp rồi làm lại.
Thở ra gắng sức và ho chủ động giúp khạc đờm dễ dàng hơn. Mỗi ngày nên ho khạc đờm 2 lần vào buổi tối trước lúc ngủ và buổi sáng khi mới dậy và làm thêm mỗi khi thấy có đờm. Chú ý quan sát màu sắc, số lượng đờm, chủ động khám khi thấy bất thường.
Tần suất và cường độ tập tăng dần từ thấp đến cao và có thể thay đổi linh hoạt tùy thuộc tình trạng sức khỏe mỗi người nhằm giúp cơ thể thích nghi. Tuy nhiên, để có hiệu quả, đòi hỏi thời gian tập từ trên 30 phút đến 1h mỗi ngày và ít nhất 3 ngày mỗi tuần, nếu mệt có thể nghỉ ngắt quãng. Nghiên cứu cho thấy nếu tập ít hơn 2 ngày mỗi tuần hoặc ít hơn 20 phút mỗi ngày thì hầu như không có hiệu quả.
Cường độ tập luyện khác nhau ở mỗi người, phụ thuộc vào đặc điểm thể chất và sức khỏe. Người tập có thể tự đánh giá và điều chỉnh cường độ tập luyện bằng cảm giác chủ quan của mình. Cường độ cao biểu hiện khó thở hoặc mỏi cơ mức độ nặng sau khi tập. Luyện tập với cường độ cao gây ra những thay đổi đáng kể về sinh lý và thể chất do đó đem lại hiệu quả tốt hơn tập luyện cường độ thấp. Sự cải thiện tình trạng bệnh càng rõ hơn khi việc luyện tập được thực hiện ở cường độ càng gần với ngưỡng gây khó thở. Tất cả các hoạt động không gây kiệt sức được đánh giá là luôn có lợi cho bệnh.
Tuy nhiên, tập luyện ở cường độ thấp cũng có thể đạt được sự cải thiện đáng kể về triệu chứng giúp dễ dàng thực hiện công việc, sinh hoạt và tuân thủ điều trị, gia tăng chất lượng cuộc sống. Đối với những người mới tập, chưa thành thạo nên bắt đầu với cường độ thấp. Có thể tập ngắt quãng 2-3 phút tập cường độ cao xen kẽ 1-2 phút cường độ thấp hoặc nghỉ ngơi. Bệnh nhân có các bệnh lý hô hấp mạn tính, khó thở, được khuyến cáo bắt đầu bằng các bài tập sức bền hoặc chỉ các bài tập tăng độ dẻo dai và có thể hỗ trợ thêm các thuốc giãn phế quản, oxy.